Theo OECD (2021) tác động của đại dịch COVID-19 và việc thắt chặt sớm các hỗ trợ đã ảnh hưởng đến chất lượng tài sản làm tăng tổn thất cho vay và có thể tiếp tục làm giảm khả năng hấp thụ các khoản lỗ của hệ thống ngân hàng cũng như nguồn cung tín dụng.
Cuộc khủng hoảng COVID-19 đã đặt ra những thách thức chưa từng có đối với khả năng phục hồi kinh tế và tài chính. Mặc dù các biện pháp hỗ trợ tài chính và tiền tệ mở rộng đã góp phần giảm thiểu các vụ vỡ nợ của cả doanh nghiệp và hộ gia đình nhưng việc rút lại các hỗ trợ chính sách tài khóa sớm trong bối cảnh sự phục hồi không đồng đều giữa các quốc gia và các lĩnh vực có nguy cơ làm tăng gánh nặng nợ nần và gia tăng nợ xấu. Theo OECD (2021) tác động của đại dịch COVID-19 và việc thắt chặt sớm các hỗ trợ đã ảnh hưởng đến chất lượng tài sản làm tăng tổn thất cho vay và có thể tiếp tục làm giảm khả năng hấp thụ các khoản lỗ của hệ thống ngân hàng cũng như nguồn cung tín dụng.
Nghiên cứu của OECD (2021) về các chiến lược xử lý nợ xấu trong bối cảnh hậu COVID-19 cho thấy các chính sách của các chính phủ và ngân hàng trung ương đã giúp giảm bớt thách thức về chất lượng tài sản của các ngân hàng trong cuộc khủng hoảng COVID-19 và giảm thiểu gia tăng nợ xấu ngân hàng ở cả các nền kinh tế phát triển và mới nổi. Tuy nhiên, sự phục hồi không đồng đều và việc kết thúc sớm các hỗ trợ tài chính - tiền tệ có thể dẫn đến nợ xấu ngân hàng cao hơn. Do đó, các cơ quan quản lý ở nhiều quốc gia cần xem xét khôi phục hoặc triển khai mới các chương trình xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng nhằm ngăn chặn sự tích tụ nợ xấu mới trên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng và giúp giảm thiểu các tác động bất lợi trong tương lai. Các ngân hàng cũng cần xác định sớm tình trạng khó khăn của người vay và chủ động phối hợp tái cơ cấu kịp thời và phù hợp khi cần thiết. Các giải pháp hiệu quả để xử lý nợ xấu sẽ giúp các ngân hàng tái tập trung vào việc hỗ trợ sản xuất trong tương lai của nền kinh tế thực.
Các giải pháp xử lý nợ xấu
Nợ xấu có những hậu quả tiêu cực đối với ngân hàng, làm thắt chặt các nguồn lực của ngân hàng như vốn, nhân lực, làm mất cơ hội cho hoạt động có lợi hơn. Nợ xấu lớn cũng có thể khiến chi phí cho vay của ngân hàng tăng lên do sự không chắc chắn về triển vọng của tổ chức. Tuy vậy, việc xử lý nợ xấu thường có những trở ngại nhất định. Khi xử lý các khoản nợ xấu, các ngân hàng thường chọn nắm giữ các tài sản kém hiệu quả, cho dù các tài sản đó vẫn còn trên bảng cân đối kế toán hoặc được chuyển giao cho một công ty con. Việc nắm giữ của các ngân hàng cũng có thể kỳ vọng vào việc giá trị của tài sản thế chấp được giải phóng để xử lý nợ xấu trong nội bộ khi các điều kiện kinh tế được cải thiện.
Bên cạnh đó, việc bán nợ xấu có thể gặp trở ngại do thiếu chuyên môn trong quản lý tài sản do việc xử lý nợ xấu thường đòi hỏi hoạt động tái cơ cấu tài chính của những người vay khả thi và tối đa hóa việc thu hồi giá trị tài sản thế chấp trong trường hợp người vay vỡ nợ. Hơn nữa, thị trường mua bán nợ xấu thứ cấp kém thanh khoản có thể gây bất lợi cho ngân hàng khi có thể chỉ bán được giá thấp. Các khoản lỗ tiếp theo do bán chiết khấu cao sẽ làm giảm đáng kể vị thế vốn của ngân hàng và trong một số trường hợp làm mất khả năng thanh toán. Sự xói mòn vốn như vậy có thể tác động bất lợi đến lòng tin của nhà đầu tư và làm tăng chi phí vốn chủ sở hữu và vốn vay nợ.
Những trở ngại đối với việc giải quyết nợ xấu cũng áp dụng cho sự phát triển của thị trường nợ xấu thứ cấp. Các vấn đề cạnh tranh, các rào cản gia nhập đối với các nhà đầu tư, nhà cung cấp dịch vụ và thiếu dữ liệu chi tiết, có thể so sánh và đáng tin cậy về nợ xấu là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường nợ xấu thứ cấp. Kết quả là có một khoảng cách lớn giữa giá mà nhà đầu tư sẵn sàng trả cho nợ xấu và giá trị sổ sách ròng trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Ngoài ra, những trở ngại về cấu trúc, như cưỡng chế thu hồi nợ yếu và các quy định pháp lý không đủ mạnh đối với chuyển nhượng hợp đồng tín dụng hoặc các hạn chế đối với người mua nợ xấu, cũng sẽ làm tăng chi phí thu thập và cản trở các ngân hàng hoặc nhà đầu tư thu giữ tài sản thế chấp một cách kịp thời, từ đó dẫn đến sự chênh lệch giá thầu rộng hơn.
Các phương pháp tiếp cận nội bảng để giải quyết nợ xấu nội bộ
Xóa nợ
Theo Ngân hàng thế giới (WB, 2019), xóa nợ là một trong những cách đơn giản nhất để xử lý nợ xấu. Bằng cách này, ngân hàng không ghi nhận các tài sản kém hiệu quả từ báo cáo tài chính của mình do không thể thu hồi được. Tuy nhiên, việc này không buộc ngân hàng phải từ bỏ khoản nợ. Bên vay vẫn nợ tiền ngân hàng và ngân hàng có trách nhiệm cưỡng chế nợ, bán hoặc chuyển nhượng khoản vay cho một bên khác. Trong trường hợp người đi vay tiếp tục thanh toán khoản nợ, hoặc khoản nợ được bán, số tiền thu hồi sẽ là ghi nhận trực tiếp vào tài khoản lãi lỗ. Trong thời kỳ khủng hoảng, việc xóa nợ xấu có thể được sử dụng như một biện pháp khẩn cấp.
Việc xóa nợ xấu mang lại một số lợi ích cho các ngân hàng và hệ thống tài chính, giúp ngân hàng tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi và trung gian tín dụng bằng cách phân bổ nguồn lực để cho vay mới. Ngoài ra, đây cũng là biện pháp hiệu quả để giảm tỷ lệ nợ xấu ngân hàng, giúp cải thiện đánh giá xếp hạng về rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Trên thực tế, các ngân hàng ngần ngại xóa nợ xấu khỏi bảng cân đối kế toán bởi việc này sẽ đòi hỏi bộ đệm vốn lớn và dự phòng đủ cao để tăng cường khả năng hấp thụ tổn thất của ngân hàng. Trích lập dự phòng thấp cho các khoản vay có vấn đề có thể khiến các ngân hàng chỉ xóa các tài sản này với một lượng nhỏ. Ngoài ra, việc xóa nợ tạo ra các khoản lỗ làm xói mòn bộ đệm vốn đến mức có thể làm giảm khả năng hấp thụ các khoản lỗ tín dụng của ngân hàng trong tương lai.
Các công ty quản lý tài sản (AMCs) phi tập trung
Các AMC phi tập trung là các cấu trúc "nội bộ" để ngân hàng giảm tải nợ xấu. Mục đích chính là tách hoạt động quản lý nợ xấu ra khỏi hoạt động ngân hàng cốt lõi, trong khi vẫn giữ được lợi thế từ việc phục hồi và kiểm soát đầy đủ các khoản nợ này. Các ngân hàng có lợi thế so sánh để xử lý nợ xấu do đã có hồ sơ khoản vay và thông tin về người vay. Hơn nữa việc để tài sản này trong ngân hàng có thể làm tăng động lực để ngân hàng tối đa hóa giá trị thu hồi của nợ xấu.
Việc tách các tài sản bị suy giảm có thể mang lại một số lợi ích cho ngân hàng và nền kinh tế thực, làm giảm sự không chắc chắn về tài sản giá trị tốt của ngân hàng và những trở ngại liên quan đến việc cấp vốn. Nó sẽ cải thiện xếp hạng tín nhiệm của ngân hàng tốt và nâng cao niềm tin của thị trường, nhà đầu tư, cổ đông và người gửi tiền. Việc xử lý và bán nợ xấu cũng được kỳ vọng sẽ giảm bớt áp lực về vốn của ngân hàng, khôi phục khả năng thu hồi nợ và sự sẵn sàng cho vay của ngân hàng. Bằng cách tách các doanh nghiệp khả thi và có lợi nhuận khỏi các doanh nghiệp gặp khó khăn và tài sản xấu, ngân hàng tốt sẽ có thể tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi của mình và tạo ra các khoản cho vay mới. Cuối cùng, việc loại bỏ các tài sản kém chất lượng khỏi bảng cân đối kế toán của các ngân hàng có thể cải thiện khả năng sinh lời của ngân hàng. Tuy nhiên, việc thiết lập một AMC phi tập trung làm tăng chi phí hoạt động, chi phí nhân lực cho thu hồi, thanh lý nợ xấu, thẩm định từng khoản vay.
Các chương trình bảo vệ tài sản
Một cách tiếp cận khác có thể phần nào giúp tách tài sản nợ xấu khỏi bảng cân đối kế toán là các chương trình bảo vệ tài sản (APS). Theo đó, các ngân hàng tham gia APS sẽ được nhà nước bù đắp một khoản lỗ nhất định cho các khoản vay cũ, với một khoản phí. Lợi ích chính của APS là không cần trả trước từ khu vực chính thức, trong khi các ngân hàng có thể bắt đầu hưởng lợi từ bảo lãnh ngay khi bắt đầu chương trình.
APS là một giải pháp xử lý khủng hoảng điển hình nhằm hỗ trợ các ngân hàng cung cấp tín dụng và quản lý rủi ro của một cuộc khủng hoảng tín dụng khi nợ xấu có thể lấn át tín dụng mới. Sau một cú sốc tiêu cực với nền kinh tế, thị trường cho vay của ngân hàng có thể trải qua tình trạng thông tin bất đối xứng và đối mặt với các hậu quả không mong muốn. Các ngân hàng có danh mục cho vay chất lượng thấp hơn sẽ phải tăng cường nguồn vốn và phát hành cổ phiếu nhưng chi phí phát hành có thể trở nên quá cao so với các ngân hàng có danh mục cho vay tốt. Do đó, thị trường vốn chủ sở hữu ngân hàng vốn có thể bị giảm mạnh - hoặc thậm chí sụp đổ. Trong bối cảnh như vậy, APS có thể giúp duy trì tính thanh khoản trên thị trường thứ cấp bằng cách giảm đáng kể rủi ro thua lỗ của ngân hàng, qua đó cho phép ổn định cơ sở vốn và giảm đòn bẩy một cách từ từ. Để giải quyết các vấn đề cấp bách nhất, APS có xu hướng nhắm mục tiêu vào một số ngân hàng lớn trong nước hơn là ngành nói chung.
Vai trò ngày càng tăng của các giải pháp dựa trên thị trường
Các nền tảng điều phối và bán nợ xấu trực tiếp
Bán nợ xấu trực tiếp cho các nhà đầu tư tư nhân cho phép các ngân hàng loại bỏ vĩnh viễn các khoản nợ xấu khỏi bảng cân đối kế toán, tránh mọi tác động về chi phí và vốn. Lợi ích chính của phương pháp này là ngân hàng có thể duy trì quyền kiểm soát đối với giá bán và các điều khoản bằng cách tổ chức đấu thầu quốc tế và đàm phán với các nhà đầu tư. Các ngân hàng cũng có thể xác định chính sách phân bổ tài sản cụ thể của một số nhà đầu tư để điều chỉnh danh mục chào bán phù hợp, từ đó thu được lợi nhuận với giá bán cao hơn.
Tuy nhiên, có những thách thức đối với phương pháp tiếp cận này. Thứ nhất, sự bất cân xứng về thông tin và khác biệt về luật pháp có thể tạo ra mức chênh lệch giá thầu cao, cản trở việc bán nợ trực tiếp. Đối với ngân hàng, việc thiếu chuyên môn về thu hồi nợ xấu và đánh giá khoản vay cản trở việc phân tách chính xác danh mục tài sản và xác định chiến lược giảm nợ xấu hiệu quả. Ngoài ra, các thông tin cá nhân mà ngân hàng ban đầu dựa vào khi cấp tín dụng không dễ dàng chuyển nhượng cho người mua nợ. Sự thiếu minh bạch về lịch sử tín dụng, đặc trưng thế chấp hoặc vị trí pháp lý của ngân hàng trong quan hệ với người vay là trở ngại cho việc định giá chính xác của các nhà đầu tư, làm tăng sự không chắc chắn và dẫn đến phí bảo hiểm rủi ro. Hơn nữa, sự khác biệt về pháp lý giữa các quốc gia khác nhau dẫn đến người mua và người cung cấp dịch vụ tín dụng phải tuân theo các quy tắc rất khác nhau để đạt được các thỏa thuận. Những khác biệt này cản trở việc mua tín dụng do làm tăng chi phí tuân thủ. Kết quả là, sự tham gia hạn chế của các tổ chức phi tín dụng làm giảm nhu cầu, giảm cạnh tranh và giá chào mua thấp, từ đó không khuyến khích các ngân hàng bán nợ xấu. Thứ hai, các nguyên tắc kế toán khác nhau đối với các ngân hàng và nhà đầu tư có thể làm tăng chênh lệch chênh lệch giá thầu. Thứ ba, các vấn đề định giá khác nhau tại từng thời điểm cũng là một trở ngại. Khi một số thị trường nợ xấu không có thanh khoản, việc định giá có thể tạo ra bất lợi cho người bán đầu tiên. Ngoài ra, trong khủng hoảng khi một khối lượng lớn nợ xấu được đem bán, động lực thanh lý nợ xấu có thể làm giảm giá tài sản. Tuy nhiên, việc bán nợ trực tiếp giúp thiết lập mức sàn để định giá nợ xấu, đem lại cho người mua và bán một tiêu chuẩn cho các giao dịch tiếp theo. Bên cạnh đó, các trở ngại khác như cơ chế giải quyết phá sản tại một số nước có thể kéo dài nhiều năm, do đó làm giảm giá trị của khoản vay; các yếu tố hành vi như tinh thần, thái độ trả nợ; các chi phí đáng kể liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ liên quan cũng ảnh hưởng đến giá thị trường của nợ xấu.
Việc chênh lệch giá thầu trên thị trường mua bán nợ xấu có thể được giải thích bởi những thất bại của thị trường (market failures) do sự bất đối xứng về thông tin hàng hóa giữa người bán và người mua. Theo đó, các ngân hàng có thể được khuyến khích bán những tài sản xấu nhất, thay vì bán các tài sản chất lượng tốt hơn ở mức giá sẽ định giá thấp hơn chúng. Kết quả là trạng thái cân bằng cung cầu không đạt được mức tối ưu, cả về giá cả và số lượng giao dịch. Điều này sẽ giải thích một phần cho chênh lệch giá mua-bán lớn cùng thanh khoản thấp trên thị trường.
Một nền tảng điều phối nợ xấu có thể giúp khắc phục vấn đề này và thu hút các nhà đầu tư mới tham gia thị trường. Nền tảng này bao gồm việc thu thập và lưu trữ dữ liệu nợ xấu tập trung cho phép các nhà đầu tư tiếp cận thông tin dễ dàng hơn. Nó cũng giúp cải thiện các quy trình thẩm định và làm cho chúng phù hợp hơn bằng cách yêu cầu các ngân hàng tham gia sử dụng các mẫu dữ liệu tiêu chuẩn. Ngoài ra, nền tảng này có thể thực hiện chức năng “thanh toán bù trừ” do nó là đầu mối liên hệ duy nhất cho các nhà đầu tư tiềm năng, cho phép họ mua tài sản có nguồn gốc từ nhiều ngân hàng mà không cần phải tiếp cận chúng một cách riêng lẻ. Mục đích chính là góp phần thúc đẩy hoạt động mua bán nợ xấu bằng cách tăng minh bạch về nợ xấu và giúp loại bỏ rủi ro đạo đức. Điều này sẽ tạo điều kiện cho hoạt động của thị trường mua bán nợ xấu thứ cấp và thúc đẩy thanh khoản. Tính minh bạch cũng sẽ nâng cao trách nhiệm giải trình và sự quan tâm của nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư mới.
Chuyển giao quyền sở hữu và chuyển giao rủi ro của các tài sản có trong nền tảng mua bán nợ xấu sẽ chỉ diễn ra tại điểm bán từ các ngân hàng cho các nhà đầu tư, do đó tránh được bất kỳ vấn đề về hỗ trợ nhà nước liên quan đến việc thành lập và vận hành một nền tảng như vậy. Trên thực tế, ngân hàng tham gia có thể trang trải chi phí miễn là lợi nhuận có thể bù đắp được hoạt động thông suốt của thị trường, giúp cải thiện mức giá bán nợ xấu cho các ngân hàng. Tuy nhiên, nền tảng sẽ xử lý các dữ liệu thương mại và thông tin cá nhân nhạy cảm, nó có thể gặp trở ngại phát sinh do các quy định bảo vệ dữ liệu trong các lĩnh vực này. Do đó, các cơ quan quản lý có vai trò xem xét và sửa đổi các quy định ảnh hưởng đến hoạt động của nền tảng điều phối; đảm bảo sự cân bằng phù hợp giữa yêu cầu bảo mật trong các lĩnh vực này và các yêu cầu hoạt động của nền tảng và người dùng.
Để vượt qua những thách thức từ việc không thể chuyển nhượng, các quy định liên quan đến cấp phép và quyền sở hữu cũng cần được đánh giá lại để đảm bảo sự cân bằng phù hợp giữa kích thích thị trường và bảo vệ người vay nợ. Các tiêu chuẩn quản trị mạnh mẽ, bao gồm xác định trách nhiệm rõ ràng, các cơ chế kiểm soát và quy trình nội bộ về kế toán, bảo vệ dữ liệu và quản trị có vai trò quan trọng đối với các nền tảng.
Công ty quản lý tài sản tập trung
Các chiến lược giảm nợ xấu của ngân hàng cũng có thể dựa trên việc thành lập một AMC tập trung, là một pháp nhân riêng biệt có nhiệm vụ mua nợ xấu từ ngân hàng, cung cấp dịch vụ xử lý nợ, và xử lý chúng một cách có trật tự cho các nhà đầu tư. AMC tập trung thường được chính phủ hỗ trợ, thông qua vốn chính phủ, hỗ trợ tài chính hoặc bảo lãnh, để theo đuổi các mục tiêu chính sách công.
Các AMC đưa ra các giải pháp tiềm năng để xử lý những thất bại tiềm ẩn trên thị trường của các thị trường nợ xấu thứ cấp. Đặc biệt, AMC có mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý nợ xấu trên toàn hệ thống ngân hàng bằng cách điều phối hoạt động bán nợ nhằm giảm thiểu gián đoạn thị trường và tối đa hóa giá trị. Trên thực tế, cấu trúc AMC có thể cung cấp một số lợi ích tiềm năng, như lợi ích kinh tế theo quy mô, chuyên môn, dữ liệu sẵn có và minh bạch, khả năng thương lượng, tính tổ chức và sự tham gia mang tính xây dựng với các quy trình pháp lý cho phép các ngân hàng bán tài sản theo giá trị kinh tế thay vì giá trị thị trường. Hơn nữa, việc thanh lý tài sản có thể được tiến hành trong một thời gian dài hơn, ngăn chặn các tác động tiêu cực của việc bán tháo lên giá tài sản.
Tuy nhiên, việc thiết lập và hoạt động của AMC cũng có một số thách thức. Cụ thể, loại tài sản và cấu trúc cho vay có vai trò quan trọng đối với sự thành công của AMC để thu hồi giá trị từ các khoản nợ xấu. Thực tế, các AMC sẽ có nhiều khả năng đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô và đánh giá chính xác rủi ro khi mua các tài sản có tiêu chí chuẩn hóa và có sẵn dữ liệu. Một khía cạnh khác là tác động của cơ cấu vốn chủ sở hữu của AMC đối với các tỷ lệ rào cản cho các khoản đầu tư và phân bổ rủi ro, lợi nhuận. Sự hỗ trợ của chính phủ đem lại nguồn lực cho hoạt động có quy mô của AMC và tạo điều kiện cho họ tiếp cận với nguồn vốn tư nhân. Bên cạnh đó, việc ngân hàng tham gia góp vốn chủ sở hữu phải được khuyến khích để giảm thiểu rủi ro đạo đức và rủi ro đối với các khoản lỗ dự kiến. Do thường được cấp vốn bởi chính phủ hoặc các tổ chức công khác, AMC có thể chịu sự can thiệp chính trị liên quan đến các mục tiêu chính sách xung đột như tối đa hóa giá trị thông qua việc xử lý các khoản nợ nhưng vẫn đảm bảo các lợi ích xã hội. Điều này có thể dẫn đến sự chậm trễ trong triển khai hoặc các kết quả tài chính không tối ưu cho AMC. Cuối cùng, sự hỗ trợ của chính phủ có thể làm phức tạp các quy trình thoái vốn và việc đóng cửa AMC. Trong một số trường hợp, AMC có thể hoạt động vô thời hạn kéo theo rủi ro đạo đức kéo dài, làm tăng nguy cơ chấp nhận các tiêu chuẩn ỏng lẻo trong thời gian cao điểm của chu kỳ tín dụng.
Chứng khoán hóa nợ xấu
Chứng khoán hóa nợ xấu có thể được coi là sự chuyển giao đáng kể rủi ro liên quan tài sản bị suy giảm mà không cần lo ngại về sự tách biệt hoàn toàn của các tài sản. Thông qua quá trình này, ngân hàng bán nợ xấu với giá chiết khấu cho các tổ chức có mục đích đặc thù (SPV). SPV tài trợ cho việc mua nợ xấu và chi phí ban đầu thông qua việc phát hành các công cụ nợ cho các nhà đầu tư. Chứng khoán hóa nợ xấu mang lại lợi ích cho cả ngân hàng và các nhà đầu tư khi nợ xấu có thể được xóa khỏi bảng cân đối kế toán ngân hàng, do phần rủi ro chính được chuyển cho một bên khác. Nó cùng giúp giải quyết những thất bại thị trường tiềm ẩn của thị trường nợ xấu thứ cấp và tăng tính thanh khoản bằng cách chuyển nợ xấu thành chứng khoán.
Tuy nhiên, phương thức này cũng có những thách thức như việc đánh giá chất lượng các danh mục nợ xấu được chứng khoán hóa có thể tốn kém. Chi phí của quá trình này cũng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của dữ liệu hiện có. Ngoài ra, sự tồn tại của một thị trường cho các sản phẩm chứng khoán hóa không phải là có sẵn. Các thị trường vốn nội địa kém phát triển và việc các tổ chức đầu tư không quen với việc nắm giữ những tài sản này có thể cản trở sự phát triển của thị trường chứng khoán hóa đang hoạt động để xử lý nợ xấu,…
Giao dịch hoán đổi nợ - vốn chủ sở hữu
Hoán đổi nợ với vốn chủ sở hữu là một cơ chế khác để xử lý nợ xấu doanh nghiệp cao. Trong các thỏa thuận này, nợ được chuyển thành vốn chủ sở hữu bằng cách ngân hàng xóa nợ để đổi lấy cổ phần của công ty không trả được nợ. Doanh nghiệp vay cam kết cung cấp cho ngân hàng cổ phần tương đương với toàn bộ hoặc một tỷ lệ nợ nhất định. Cơ chế này giúp giảm nợ xấu của ngân hàng và giảm thiểu rủi ro mất khả năng thanh toán của người đi vay, cũng như cung cấp phương tiện tái cấu trúc/xử lý công ty mắc nợ bằng cách thay đổi quyền sở hữu.
Mặc dù phương thức này có thể giải quyết rủi ro mất khả năng thanh toán, nhưng có thể sẽ tạo điều kiện cho cả những công ty không khả thi. Ngoài ra, ngân hàng có thể có ít động lực để chủ động tái cấu trúc công ty, đặc biệt nếu ngân hàng là cổ đông thiểu số, hoặc nếu cả ngân hàng và công ty đều thuộc sở hữu nhà nước. Ngoài ra, các ngân hàng có thể có chuyên môn hạn chế để điều hành hoặc tái cấu trúc một doanh nghiệp và có thể cần tìm quản lý tạm thời. Tuy nhiên, cấu trúc quản trị công ty như vậy có nguy cơ tạo ra rủi ro đạo đức và xung đột lợi ích. Ngân hàng có thể tiếp tục cho vay đối với một bên liên quan, từ đó góp phần làm tăng nợ và cản trở nỗ lực xử lý vốn chủ sở hữu do rủi ro vỡ nợ của công ty và tổn thất ngân hàng ngày càng tăng. Khác với bán nợ trực tiếp, hoán đổi nợ - vốn chủ sở hữu đem lại cho các ngân hàng sự thuận lợi về mặt tài chính. Tuy nhiên, rủi ro của việc hoán đổi có thể xảy ra liên quan đến định giá thấp nợ xấu chiết khấu. Ngoài ra, phương pháp này bị hạn chế đối với các ngân hàng tùy thuộc vào quy định về tỷ lệ nắm giữ vốn chủ sở hữu.
Theo IMF, chuyển đổi tài sản nợ thành công cần đảm bảo các thỏa thuận được thực hiện một cách nghiêm ngặt theo các tiêu chí về khả năng thanh toán và khả năng tồn tại của công ty mục tiêu. Ngân hàng chỉ nên chuyển đổi nợ ở những công ty có lợi thế rõ ràng để làm như vậy và có cơ hội để thoát khỏi vị thế trong ngắn và trung hạn. Điều này đòi hỏi phải đánh giá các công ty mục tiêu để đảm bảo chương trình chỉ dành cho những công ty có cơ hội thành công cao. Ngoài ra, các thông lệ quản trị công ty hợp lý có thể đảm bảo rằng các chủ nợ được chuyển đổi phải có khả năng thay thế ban quản lý, ngay cả khi họ nắm cổ phần thiểu số. Mục đích chính là khuyến khích giải quyết các vấn đề tồn tại và thu hút các nhà đầu tư mới cũng như cho phép các chủ nợ cũ thoát ra.
Cùng với đó, quyền sở hữu vốn chủ sở hữu của ngân hàng nên được giới hạn trong phạm vi và thời gian nhất định để ngân hàng không bị phân tâm khỏi chức năng trung gian, đồng thời giảm thiểu rủi ro đạo đức và xung đột lợi ích. Hơn nữa, việc có các ngân hàng với tư cách là cổ đông của các công ty phi tài chính có thể đại diện cho một rủi ro đáng kể đối với khả năng phục hồi tài chính. Cuối cùng, chuyển đổi nợ theo giá trị hợp lý và ghi nhận các khoản lỗ sẽ đảm bảo ngân hàng chủ động xác định và quản lý các tài sản bị tổn thất.
Các cân nhắc chính sách cấp cao
Việc xử lý các khoản nợ xấu của ngân hàng cần tạo ra động lực để các ngân hàng và các bên liên quan chủ động giải quyết tỷ lệ nợ xấu hiện tại và ngăn chặn nợ xấu tích tụ trong tương lai. Sự phức tạp của các chiến lược xử lý nợ xấu và những thách thức riêng của từng quốc gia đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện, có sự tham gia của các cơ quan hữu quan và xem xét các biện pháp khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau của thị trường. Để nâng cao hiệu quả của các công cụ hiện có và mở rộng phạm vi các giải pháp khả thi, theo OECD (2021) cần cân nhắc thêm bốn lĩnh vực chính như sau:
Tăng cường các khuôn khổ quản lý việc thu hồi nợ, mất khả năng thanh toán và tái cấu trúc nợ: nâng cao sự chắc chắn về mặt pháp lý đối với các khuôn khổ về mất khả năng thanh toán, trong khi duy trì các tiêu chuẩn cao về bảo vệ người tiêu dùng, sẽ tạo điều kiện phục hồi giá trị vì lợi ích của cả người vay và cho vay. Bên cạnh đó, khuyến khích các khuôn khổ tái cấu trúc phòng ngừa có thể giảm thiểu rủi ro các khoản cho vay trở thành nợ xấu trong chu kỳ suy thoái, mặt khác đẩy nhanh việc thanh lý các doanh nghiệp không khả thi.
Tạo điều kiện phát triển thị trường mua bán nợ xấu thứ cấp: tạo điều kiện gia nhập thị trường dễ dàng hơn có thể giúp cải thiện tính thanh khoản của thị trường thứ cấp và làm cho chúng trở nên hấp dẫn hơn cho cả ngân hàng và nhà đầu tư. Do đó, các đề xuất nhằm tăng cường bảo vệ người vay và các cải tiến có mục tiêu đối với khuôn khổ chứng khoán hóa trong khi vẫn cho phép xử lý nợ xấu hiệu quả cần được xem xét thêm. Đồng thời, cơ sở hạ tầng dữ liệu và chất lượng dữ liệu được cải thiện, đặc biệt là khả năng so sánh, được coi là nền tảng cho sự minh bạch của thị trường. Một chiến lược khả thi có thể bao gồm việc khám phá các cách thức khả thi để phát triển hơn nữa nền tảng dữ liệu điện tử tập trung và khuyến khích chia sẻ thông tin về giá bán và các chi tiết giao dịch sau mua bán. Ngoài ra, việc xem xét một số khía cạnh của khuôn khổ pháp lý có khả năng làm suy yếu tính khả thi của một số giải pháp xử lý nợ xấu dựa trên thị trường có thể giúp khôi phục hiệu quả của tất cả các công cụ xử lý nợ xấu.
Hỗ trợ các sáng kiến hợp tác cho các chiến lược xử lý nợ xấu của ngân hàng: các chiến lược giảm nợ xấu trên toàn quốc, được thiết kế và thực hiện với sự tham gia tích cực của tư nhân và các bên liên quan trong khu vực công, có thể giúp đẩy nhanh tốc độ giảm nợ xấu. Một chiến lược thành công phải được xây dựng dựa trên sự phối hợp và tương tác chặt chẽ giữa các ngân hàng, khu vực tư nhân các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý để đảm bảo các hành động, biện pháp được thực hiện kịp thời, phù hợp và kiểm soát rủi ro. Đặc biệt, AMC tập trung có thể đóng vai trò điều phối quan trọng thông qua việc mua nợ xấu từ các ngân hàng, cung cấp các dịch vụ xử lý nợ và giải quyết một cách đúng trình tự. Tuy nhiên, đảm bảo một thiết kế đầy đủ cho các tổ chức này là rất quan trọng để ngăn chặn các hậu quả không mong muốn như rủi ro đạo đức trong hành vi của các ngân hàng và việc sử dụng công quỹ trong các các kế hoạch. Hỗ trợ được cung cấp bởi AMC có thể kết hợp với các biện pháp hỗ trợ tài sản suy giảm khác như bảo lãnh, chứng khoán hóa, hoặc APS để khai thác đầy đủ tiềm năng các nguồn lực sẵn có. Ngoài ra, các mạng lưới AMC có thể được củng cố bởi một trung tâm dữ liệu điện tử về nợ xấu để nâng cao hiệu quả thị trường, đồng thời đảm bảo các nguyên tắc bảo vệ dữ liệu của người vay.
Sự cần thiết phải giải quyết những khó khăn cụ thể có thể xuất hiện trong lĩnh vực ngân hàng sau cuộc khủng hoảng COVID-19: khi các hệ thống ngân hàng lớn bước vào cuộc khủng hoảng COVID-19 với vốn hóa lớn và tính thanh khoản cao hơn so với các cuộc khủng hoảng trước đây sẽ giúp các nhà chức trách có thể tiếp tục với các phản ứng chính sách kinh tế.
Tóm lại, việc kết hợp các chiến lược ở cấp ngân hàng với các giải pháp dựa trên thị trường có thể đẩy nhanh tốc độ giảm nợ xấu nhưng đòi hỏi nâng cao tính minh bạch và khả năng so sánh của dữ liệu về nợ xấu, trong khi vẫn duy trì bảo vệ người tiêu dùng và người vay. Tuy nhiên, sự thành công của những công cụ này cuối cùng sẽ phụ thuộc vào một loạt các hành động pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các xử lý tình trạng không trả được nợ và các khuôn khổ thực thi.
Theo SBV